Nguồn gốc lịch sử tộc người Hán ở Trung Quốc

Anh Đức 12/11/2019

Nguồn gốc lịch sử tộc người Hán ở Trung Quốc

Là một dân tộc bản địa của Trung Quốc và là dân tộc đông dân nhất trên thế giới,  người Hán chiếm khoảng 92% dân số của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và khoảng 19% dân số thế giới. Có một sự đa dạng lớn về xã hội, ngôn ngữ, di truyền, văn hóa lớn giữa các phân nhóm dân tộc, chủ yếu là do hàng ngàn năm đồng hóa địa phương hóa của các dân tộc và bộ lạc ở Trung Quốc.

 

Chiều cao của người Hán ở Trung Quốc

Người Hán có tầm người khá cao (163,7cm), đầu dạng đầu trung bình thiên về dài, mặt dạng trung bình thiên về dài, phần mặt cao, rộng vừa phải, các nét mông cổ như nếp mi góc phổ biến, tóc đen thẳng, lông trên thân ít phát triển, sắc da vàng.. biểu hiện khá rõ. Đó là loại hình Nam Á điển hình thuộc chủng Mongoloid Phương Nam.

Những giai thoại, truyền thuyết về Tộc Người Hán ở Trung Quốc

Truyền thuyết Trung Hoa nói rằng, dân tộc Hán là Viêm-Hoàng tử tôn, tức là con cháu của Viêm Đế họ Thần Nông và Hoàng Đế họ Hiên Viên. Trong cuốn “Sự hình thành và phát triển nền văn hóa Trung Hoa, thì bộ lạc của Trung Quốc thời viễn cổ gồm 3 tập đoàn. Tập đoàn Hoa Hạ ở phía Tây Bắc, tập đoàn Đông Di ở phía Đông, tập đoàn Man ở phía Nam. Tập đoàn Hoa Hạ bao gồm các tộc Hoàng Đế, Viêm Đế. Viêm Đế họ Khương, Hoàng Đế họ Cơ…”

Sách Trung Quốc dân tộc học có viết về Người Hán như sau:

Trong cuốn “Trung Quốc dân tộc học”, nhà sử học Trung Quốc Vương Đồng Linh viết: “Khoảng 500.000 năm trước, sau bốn lần băng tuyết, những người sống sót trú trên rặng núi Thiên Sơn. Sau đó nhóm người này tỏa ra phía Tây làm dân da trắng, nhóm người tỏa ra phía Đông làm dân da vàng. Nhóm người này chia làm hai ngả: Thiên Sơn bắc lộ gồm Mãn, Mông, Hồi. Một theo Thiên Sơn Nam lộ gồm Miêu, Hoa, Tạng. Trong đó Tạng là Anhđônê, Mã Lai Á, Nam Dương, Cao Miên, Chàm, Hoa (là Hán tộc sau này). Miêu là Tam Miêu, Bách Việt trong đó có Âu Việt (Miên, Thái, Lào), Miêu Việt (Mèo, Mán), Lạc Việt (Việt Nam, Mường)”.

Sách Trung Quốc Thông Sử có ghi lại rằng:

Theo quan điểm của Chu Cốc Thành trong cuốn “Trung Quốc thông sử” có viết: “Viêm Việt đã vào nước Tàu trước theo ngọn sông Dương Tử. Thoạt kỳ thủy chiếm 7 tỉnh Trường Giang rồi tỏa lên Bắc chiếm 6 tỉnh Hoàng Hà, cũng như tỏa xuống mạn Nam chiếm 5 tỉnh Việt Giang, vị chi là 18 tỉnh. Vì thế khi người Hoa vào thì Viêm Việt đã cư ngụ rải rác khắp nước Tàu, là vì Hoa tộc tuy cũng theo Thiên Sơn Nam lộ nhưng nấn ná ở lại vùng Tân Cương thuộc Thanh Hải lúc bấy giờ còn là phúc địa, mãi sau mới theo ngọn sông Hoàng Hà vào chiếm 6 tỉnh miền Bắc rồi dần dần lan tỏa xuống miền Nam đẩy lui Viêm Việt”.

Tài liệu Cội Nguồn Văn Minh Nông Nghiệp Trung Quốc có chép:

Cuối năm 2006, trong tài liệu: “Cội nguồn văn minh nông nghiệp ở Trung Quốc”, giáo sư Zhou Jixu viết: Không giống như các dân cư Ngưỡng Thiều và Hà Mục Độ là những người đến từ miền Nam Trung Quốc, dân cư của Hoàng Đế đến từ phía Tây của Trung Quốc, từ phần phía Tây của lục địa Âu-Á.

Họ chinh phục người dân của lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử, những người thủ đắc nền văn hóa nông nghiệp phát triển. Bằng cách kết hợp văn hóa riêng của họ với các yếu tố văn hoá của người bản địa, dân cư của Hoàng Đế từng bước phát triển một nền văn minh rực rỡ mới vào thời Hạ, Thương và Chu.

Họ thay thế người dân bản địa, nắm giữ vai trò lãnh đạo trên các giai đoạn lịch sử Trung Quốc. Cho rằng dân cư của Hoàng Đế là một chi nhánh của người Ấn – Âu cổ, là một trong những sự kiện đáng kể nhất nay được biết tới trong lịch sử nhân loại.

 

Nguyên lý Mỹ học kể bằng truyền thuyết

Theo nguyên lý mỹ học, truyền thuyết là ánh xạ của lịch sử. Dưới hình thức truyền thuyết, tâm linh và trí tuệ dân gian ký thác trong đó cái hồn, cái vía của lịch sử để lưu truyền cho hậu thế. Vì lẽ đó, truyền thuyết gắn bó hữu cơ với lịch sử. Do vậy, có thể truy tìm chân lý từ hai chiều. Từ truyền thuyết phát hiện sự thật lịch sử.

Và ngược lại, từ sự thật lịch sử để hiểu đúng truyền thuyết. Do sự ký thác của người xưa thường cô đọng dưới dạng biểu tượng nên việc giải mã truyền thuyết cực kỳ khó khăn. Điều này dẫn tới hai thái cực: một cho truyền thuyết là hoang đường không đáng quan tâm. Một lại đồng nhất truyền thuyết với lịch sử dẫn đến sai lầm ngộ nhận. Tuy vậy, cũng có những trường hợp, từ giải mã truyền thuyết đã làm sáng tỏ nhiều sự kiện bị khuất lấp, mở ra hiểu biết mới về lịch sử.

Trường hợp triết gia Kim Định phát hiện ra Việt Nho, giáo sư Stephen Oppenheimer giải thích một số vấn đề của văn minh tiền sử Đông Nam Á là những thí dụ tiêu biểu. Ngày nay, do những thành tựu của khoa học, chúng ta biết nhiều hơn về giai đoạn tiền sử vì vậy có thêm những chứng cứ xác thực để hiểu truyền thuyết.

Cư dân Trung Quốc quy tụ

Đúng là dân cư Trung Quốc hợp thành từ ba nguồn chính: Hoa Hạ, Đông Di và Nam Man. Và cũng đúng người Hoa Hạ là con cháu Viêm Đế và Hoàng Đế. Nhưng không phải Viêm Đế họ Khương, Hoàng đế họ Cơ mà là hai chủng tộc Bách Việt và Mông Cổ.

Tri thức nhân học hiện nay phủ định thuyết Đa trung tâm nên cũng phủ định luôn ý tưởng cho rằng, “500.000 năm trước, những nhóm người sống sót từ chân núi Thiên Sơn di cư sang châu Âu và châu Á để trở thành con người hiện nay.” Hiểu biết mới cũng phủ nhận việc con người di cư từ Tây Bắc xuống mà khẳng định con người trên đất Trung Hoa là từ phía Nam lên.

Có một điều hai tác giả này đúng khi cho rằng người Việt có mặt ở Trung Hoa trước người Hoa Hạ. Dựa trên so sánh giữa ngôn ngữ Ấn-Âu và ngôn ngữ Hán, Zhou Jixu cho rằng những người vào lưu vực Hoàng Hà chiếm đất của người Bách Việt là những bộ lạc Tiền Ấn – Âu.

Chính những người mang gen Indo-Europians này làm nên thành phần chủ lực của dân số Trung Quốc là người Hán. Nhưng di truyền học khi phát hiện bộ gen Mongoloid phương Nam của người Hán đã bác bỏ giả thuyết này. Nếu quả như tác giả nói thì hiện nay, người Hán phải có mã di truyền Ấn – Âu giống như người Ấn Độ. Đó là điều không tồn tại trên thực tế. Không thể nào hiểu được là, vì sao tác giả lại tự mâu thuẫn như vậy: trong khi khẳng định người Hán thuộc chủng Mongoloid phương Nam, lại cho rằng tổ tiên họ là người Indo-Europians.

Người Hán và những tài liệu Việt có ghi chép lại

Như vậy muốn biết nguồn gốc người Hán hiện đại, cần xác định tình trạng dân cư thời tiền sử của khu vực. Trong hai cuốn sách Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn học, 2007) và Hành trình tìm lại cội nguồn (NXB Văn Học, 2008) và nhiều bài viết đã công bố, chứng minh rằng, khoảng 10000 năm trước, tình hình dân cư trên lục địa Trung Quốc như sau:

Từ lưu vực Hoàng Hà xuống phía Nam là địa bàn của người Bách Việt, thuộc loại hình Australoid. Đấy là bốn chủng Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid do sự hòa huyết của đại chủng Australoid và Mongoloid từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ Dương tới Việt Nam 70.000 năm trước và di cư lên Trung Hoa khoảng 30 – 40000 năm cách nay. Tại Tây và Tây Bắc Trung Quốc, các bộ lạc Mông Cổ du mục cư trú.

Đây là người Mongoloid từ châu Phi tới Việt Nam rồi di chuyển theo hành lang Tây Bắc tới định cư ở vùng Tây Tạng khoảng 40000 năm trước. Từ săn bắt hái lượm, họ chuyển sang du mục, trở thành những bộ lạc Mongoloid phương Bắc. Tại Tây Nam và Đông Bắc Trung Quốc có những bộ lạc thiểu số mang gen Á-Âu từ Trung Á sang sinh sống vào khoảng 15000 năm trước.

Chủng người mới

Bên cạnh đó, khoảng 8000 năm trước, xuất hiện hai nhóm dân cư mới: Muộn nhất, khoảng 8000 năm trước, tại vùng hoàng thổ Hoàng Hà, có sự tiếp xúc, hòa huyết giữa người Mông Cổ phương Bắc và người Bách Việt, sinh ra chủng mới là người Mongoloid phương Nam trong cộng đồng Bách Việt. Học nghề nông cùng văn hóa của tổ tiên Bách Việt, họ trở thành chủ nhân văn hóa trồng kê Ngưỡng Thiều.

Không có bất cứ tài liệu nào về nhân số người Ngưỡng Thiều nhưng dựa vào bức tranh dân cư khu vực, tôi cho rằng, họ có số lượng đáng kể. Trong khi có những nhóm Mongoloid riêng lẻ từ Đông Dương đi lên Tây Bắc Trung Hoa thì cũng có những nhóm đồng chủng của họ theo bờ biển đi tới vùng cửa sông Dương Tử, Chiết Giang và ở lại. Khoảng 5000 năm TCN, khi người Bách Việt mở rộng vùng phân bố, đã tiếp xúc với người Mongoloid bản thổ.

Sự lai giống diễn ra, chủng Mongoloid phương Nam ra đời. Cũng như người Yangshao, họ không phải người Hoa Hạ mà là chủng mới của cộng đồng Bách Việt, là chủ nhân của văn hóa lúa nước nổi tiếng Hemudu (Hà Mục Độ). Điều giáo sư Zhou Jixu cho rằng “Người Ngưỡng Thiều và người Hà Mục Độ là từ phía Nam Trung Quốc lên”(3) cần được giải thích rõ hơn.

 

Ngược về quá khứ

Vào thời điểm 10000 năm trước, toàn bộ phía Nam Trung Quốc do người Australoid chiếm lĩnh, người Mongoloid phương Nam chưa ra đời. Người Hà Mục Độ mới được sinh ra khoảng 5000 năm TCN nên không thể đi lên phương Bắc để thành người Ngưỡng Thiều. Nhiều khả năng hơn là cả người Ngưỡng Thiều và Hà Mục Độ được sinh ra tại chỗ, do sự hòa huyết giữa người Bách Việt và người Mông Cổ phương Bắc cũng ở Việt Nam lên, cư trú ở đó từ trước.

Cho đến nay, người Hán được nghiên cứu khá kỹ về chủng tộc, văn hóa và lịch sử. Nhưng như phân tích trên, nguồn gốc người Hán chưa được xác định. Các nhà khoa học Trung Quốc cũng như thế giới thừa nhận người Hán thuộc chủng Mongoloid phương Nam và tiền thân của họ là nhóm Hoa Hạ xuất hiện sau thời Hoàng Đế. Tài liệu truyền thống cho rằng “Người Hoa Hạ vượt Hoàng Hà chiếm đất của người Bách Việt”.

Nhưng phân tích nguồn gen người Hán cùng tình hình dân cư khu vực cho thấy, thời điểm phía Nam Hoàng Hà bị xâm lăng, người Hoa Hạ chưa ra đời, còn người Ngưỡng Thiều và Hà Mục Độ, là nạn nhân nên không thể là chủ thể của cuộc xâm lược. Có thể khẳng định, Xâm lăng Bách Việt khoảng 2600 năm TCN là người Mongoloid phương Bắc. Cho rằng “người Hoa Hạ xâm lăng Bách Việt” là sai lầm nghiêm trọng, làm đảo lộn lịch sử.

Từ thực trạng dân cư, qua tiến trình lịch sử, thể hiện nơi những nghiên cứu khảo cổ, ngôn ngữ, văn hóa và lịch sử vùng, tôi cho rằng tổ tiên người Hán hiện đại được tạo nên từ hai nguồn.

Nguồn thứ nhất

Khoảng 2600 năm TCN, người Mông Cổ phương Bắc vượt Hoàng Hà xâm lăng Bách Việt. Họ hòa huyết với người Bách Việt, sinh ra người Mongoloid phương Nam, tự gọi là Hoa Hạ. Cùng với quá trình mở rộng lãnh thổ, người Hoa Hạ hòa huyết với người Việt bản địa và tăng nhanh số lượng. Sau vài trăm năm, người Mông Cổ thuần chủng không còn. Trong khi đó những người Việt bản địa không chịu đồng hóa thì biến thành người thiểu số. Người Hoa Hạ trở thành đa số, giữ vai trò chủ thể của nhà nước Hoàng Đế. Dân cư nhà nước Hoàng Đế mở rộng tới thời Thương, Chu và là một bộ phận dân cư tạo thành nhà Tần.

Nguồn thứ hai

Từ cuộc xâm lăng của người Mông Cổ, một bộ phận đáng kể người Bách Việt chạy về phía Đông và Nam. Trong dòng di tản có số lượng đáng kể người Mongoloid phương Nam, chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều. Người Mongoloid phương Nam tăng nhanh số lượng do hòa huyết với người Bách Việt Australoid. Cho tới khoảng 2000 năm TCN, đa số dân cư trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử như Ngô, Việt, Sở được chuyển hóa từ Việt cổ (Australoid) sang Việt hiện đại (Mongoloid phương Nam).

Theo nhà nghiên cứu ngôn ngữ Việt cổ Đỗ Thành, người Việt vùng này đồng thời cũng gọi mình là Hàn, Hon, Hòn. Khi chiếm nước Sở, Tần Thủy Hoàng sáp nhập khối dân Việt của Sở vào với người Hoa Hạ của nhà Chu. Cả hai dòng người lúc này cùng một chủng Mongoloid phương Nam và ngôn ngữ phổ thông là tiếng Việt, được gọi là nhã ngữ.

Nước Trung Hoa lúc này được thế giới biết đến với tên gọi Tsin. Khi nhà Tần sụp đổ, Lưu Bang lập nước dựa trên cương vực và thể chế nhà Tần, đã lấy tên tộc Việt của mình là Hòn, Hon (漢) theo cách đọc Bắc Kinh là Hán, đặt cho vương triều.

Từ thời điểm đó, danh xưng Hoa Hạ được thay bằng danh xưng Hán để chỉ người Mongoloid phương Nam chiếm đa số trong dân cư Trung Quốc. Như vậy, vào thời Tần-Hán, người Hán được hình thành do sáp nhập khối người Hoa Hạ vào khối người Việt trên địa bàn đất Kinh, Dương của nước Văn Lang cũ.

Suy cho cùng, lịch sử một quốc gia là lịch sử hình thành và phát triển của khối dân cư chủ thể tạo nên quốc gia đó. Vì vậy, khi chưa xác định được nguồn cội và sự hình thành của khối người Hán, chưa thể hiểu căn cơ lịch sử, văn hóa Trung Hoa.

Từ phân tích trên, người viết cho rằng, đây là lần đầu tiên, cội nguồn cũng như quá trình hình thành khối dân cư Hán trong lịch sử Trung Hoa được trình bày một cách khoa học, sáng rõ. Để có thể hiểu sâu sắc hơn về một tộc người, điều quan trọng tiếp theo cần được biết đến là về thuật ngữ tên gọi. Hiển nhiên mỗi dân tộc đều có những ý nghĩa riêng gắn trong thuật ngữ. Nó kết tinh ra sao hàm chứa ẩn ý gì luôn là câu hỏi trong bức tranh lịch sử tộc người.

Thuật ngữ và từ nguyên

Tên gọi “Hán” xuất phát từ nhà Hán, một triều đại kế tiếp của nhà Tần tồn tại trong thời gian ngắn và đã thống nhất Trung Quốc. Chính trong thời kỳ nhà Tần và nhà Hán thì các bộ lạc của Trung Hoa đã bắt đầu cảm thấy rằng họ thuộc về cùng một nhóm dân tộc, so sánh với các dân tộc khác xung quanh họ. Ngoài ra, nhà Hán đã được xem là đỉnh điểm của nền văn minh Trung Hoa, có khả năng mở rộng sức mạnh và ảnh hưởng đến Trung Á và Đông Bắc Á và có thể so sánh ngang hàng với Đế quốc La Mã về dân số và lãnh thổ.

Trong một số người Hán ở phương Nam, một thuật ngữ khác tồn tại trong nhiều ngôn ngữ khác nhau như tiếng Quảng Đông và tiếng Hẹ và tiếng Mân Nam, thì thuật ngữ “Đường nhân” (Tángrén 唐人, có nghĩa là “người Đường”), tiếng Việt trước đây ở Nam bộ gọi người gốc Hoa là chú “Thoòng”. Thuật ngữ này xuất phát từ một triều đại khác của Trung Quốc là nhà Đường vốn xem là một đỉnh cao văn minh khác của nền văn minh Trung Hoa. Thuật ngữ này vẫn còn tồn tại trong một số tên gọi mà người Hán dùng để đặt cho phố Tàu: 唐人街 (Tángrénjiē), có nghĩa “Phố của người Đường”.

Lần theo dấu vết của lịch sử

Để giải mã ý nghĩa của sự ra đời tên gọi, lần theo dấu vết lịch sử, chúng ta sẽ khám phá ra rằng nguồn gốc của dân tộc Hán có thể truy ngược lên đến thời cổ đại xa xưa, tên gọi của dân tộc mãi đến thời kỳ cận đại mới xác định. Theo truyền thuyết kể lại, trong thời cổ đại xa xưa đã có những thị tộc Cửu Lê, Tam Miêu, Viêm Đế Thị, Hoàng Đế Thị sinh sôi nảy nở trong vùng Trung Nguyên. Đến đời Chu Vũ Vương thì các thị tộc này trong vùng Trung Nguyên tự xưng là Hoa Hạ. Chung quanh thì có các dân tộc thiểu số Man, Di, Nhung, Địch.

Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc cho đến khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất toàn cõi Trung Quốc, là thời kỳ đầu tiên các dân tộc ở Trung Quốc tụ hợp lại với nhau. Do chiến tranh, các cuộc di dân và sự kết hôn giữa những người thuộc những dân tộc khác nhau, bốn nước lớn trong thời kỳ này là Tần, Sở, Ngô, Việt cùng với một số nước nhỏ nữa từ các dân tộc Di, Địch biến thành dân tộc Hoa Hạ và hình thành một quốc gia Trung ương tập quyền đầu tiên lấy dân Hoa Hạ làm chủ thể, đó chính là đế quốc nhà Tần.

Đến triều Hán, các dân tộc thiểu số Hung Nô, Tiên Ti, Để, Khương… vốn sống trong hai miền Bắc và Tây Bắc, bắt đầu di cư với số lượng lớn vào nội địa.

Đến hai triều Nguỵ và Tần thì các dân tộc thiểu số vùng Quan Trung đã chiếm tới nửa số dân. Do ảnh hưởng của nền văn hoá Hoa hạ, phương thức sản xuất cũng như phương thức sinh hoạt của họ cũng đã thay đổi lớn và họ dần dần thống nhất với hai dân tộc bản địa, khiến thời kỳ Nguỵ – Tần trở thành thời kỳ thứ hai của quá trình thống nhất dân tộc.

Hai triều đại Tống và Nguyên là thời kỳ thứ ba của quá trình thống nhất dân tộc. Trong thời kỳ này các dân tộc Khiết Đan, Nữ Chân, Mông Cổ, lần lượt xâm nhập Trung Nguyên và trong khi củng cố quyền thống trị của mình, họ cũng bị nền văn hoá Trung Nguyên đồng hoá.

Đến thời kỳ này, tên gọi người Hán (Hán nhân, Hán nhi) đã trở nên khá phổ biến, nhưng vẫn chưa trở thành tên gọi chính thức của dân tộc.

Tộc người Hán thời hiện đại

Khi nước Trung Hoa Quốc dân thành lập, tự xác định là một nước cộng hoà của năm dân tộc Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng, hai chữ “Hán tộc” mới thực sự trở thành tên gọi dân tộc của cộng đồng người Hán. Ngày nay, thuật ngữ Hán thường được người Hán ở Trung Hoa Đại lục và người gốc Hán ở nước ngoài sử dụng để chỉ những gì thuộc về văn hóa và dân tộc của mình. Nguồn gốc lịch sử đọng lại nơi tâm thức của cá nhân trong cộng đồng dân tộc là kết quả cho tiến trình hội tụ và phát triển văn hóa. Nói cách khác, sự thể hiện những đặc sắc văn hóa tộc người là sự phản ánh ở bên ngoài còn cái nội dung, cái bản chất tạo nên chúng thì ẩn chứa bên trong. Chúng kết tinh ra sao thì phải thông qua lịch sử để điểm lại quá trình hình thành. Đây là điều mà không chỉ riêng dân tộc Hán, song còn ứng dụng với các dân tộc khác của một quốc gia cũng như của các nước đa dân tộc.

Tóm lại, với tộc người Hán ở Trung Quốc hiện nay với dân số: 1.230.117.207 (năm 2000) đã và đang là tộc người chủ thể trong một quốc gia rộng lớn, đa tộc người nên có vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước.

(Còn nữa….)

 

Tin mới

Phân loại dân tộc ở Trung Quốc

Các tiêu chí phân loại tộc người của Trung Quốc...

Đặc Điểm Sinh Hoạt Kinh Tế Của Người Hán Trung Quốc

Hoạt động kinh tế truyền thống Người Hán là một...

Vận số tuổi niên thiếu: Đôi tai nói lên số mệnh cuộc đời

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Nulla nulla...